A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người chỉ huy tài ba

Suốt những năm hoạt động cách mạng, vượt bao cam go, thử thách khốc liệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù ở cương vị công tác nào, Chủ tịch nước ,Đại tướng, Lê Đức Anh cũng luôn không ngừng phấn đấu, không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, sáng tạo, quyết đoán và hành động quyết liệt để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 1/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân lao động cùng khổ dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, đồng chí sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1937. Năm 1938, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khi mới 18 tuổi.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trao tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đồng chí Lê Đức Anh, ngày 29/7/2013
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trao tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đồng chí Lê Đức Anh, ngày 29/7/2013

 

NGƯỜI CHỈ HUY TÀI BA, QUYẾT ĐOÁN LUÔN CÓ MẶT Ở NHỮNG CHIẾN TRƯỜNG KHÓ KHĂN, GIAN KHỔ NHẤT

Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến người dân nô lệ mất nước sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong con người đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh cách mạng sôi nổi. Năm 16 tuổi, đồng chí được giác ngộ và năm 17 tuổi chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương, bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ ở làng quê. Năm 18 tuổi, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Cuối năm 1938, đầu năm 1939, thực dân Pháp thẳng tay khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng; nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt. Tháng 10-1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ chức cộng sản, đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và sớm tìm đến với tổ chức cách mạng. Đầu năm 1942, đồng chí rời Đà Lạt xuống đồn điền cao su Lộc Ninh, tiếp tục làm thuê kiếm sống và đã tìm cách bắt liên lạc với tổ chức và tiến hành giác ngộ, vận động, gây dựng và phát triển phong trào của phu cao su. Khi phong trào phát triển nhanh và vững ở đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí đã gây dựng phong trào phát triển rộng đến các đồn điền lân cận, như: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch.

Đồng chí đã trực tiếp giác ngộ hàng trăm phu cao su Lộc Ninh, tuyển chọn và kết nạp được 4 người, thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên do đồng chí làm Bí thư Chi bộ. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Chi bộ Lộc Ninh khẩn trương gây dựng, phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản. Ngày 23-8-1945, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp khởi nghĩa thành công, sau đó kéo quân về hợp điểm giành chính quyền ở tỉnh lỵ đêm 24, rạng sáng ngày 25-8-1945. Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945, tại Hớn Quản, Đội võ trang do đồng chí Lê Đức Anh thành lập và chỉ huy có quân số hơn 100 người với cung nỏ khoác vai, bao tên đeo ngang hông mà nhân dân trong vùng quen gọi là “Đội quân áo nâu”.

Ngày 23/9/1945, kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, đồng chí được điều vào quân đội. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954), đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, đến Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn đến Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Những năm kháng chiến đầy gian khó đó, đồng chí đã bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của từng địa bàn, theo phương châm dựa vào dân mà chiến đấu, góp phần vào thắng lợi quan trọng của các chiến dịch, đi đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, đồng chí tập kết ra Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), đồng chí được Đảng giao các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến; Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam; Tư lệnh Quân khu 9; Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

Cụ thể, năm 1964, từ miền Bắc, đồng chí được điều động vào làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam và liên tục ở chiến trường Nam Bộ cho đến ngày toàn thắng. Hơn 10 năm trực tiếp là người lãnh đạo, chỉ huy chiến trường Nam Bộ, đồng chí đã bộc lộ rõ tài năng và sự quyết đoán, dám làm và dám chịu trách nhiệm của mình đối với cấp trên, với đồng bào, đồng chí. Năm 1969, khi chiến trường Tây Nam Bộ gặp khó khăn chồng chất, đồng chí được Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền điều động về làm Tư lệnh Quân khu 9 để từng bước khôi phục lại lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng ở địa bàn sông nước rất ác liệt và gian khổ này…

Từ năm 1969 đến năm 1973, đồng chí được giao cương vị Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu 9. Đây là giai đoạn Khu 9 gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, lực lượng vũ trang bị tổn thất nặng nề, phải rút khỏi vùng ven đô thị, đồng bằng khi địch bình định lấn chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây. Với tài năng chính trị - quân sự, tầm nhìn chiến lược và tư duy sắc sảo, phân tích, đánh giá chính xác tình hình, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khối đoàn kết, củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị... từng bước vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy, đánh bại các chiến thuật, chiến lược quân sự của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, góp phần khôi phục và phát triển phong trào kháng chiến trên địa bàn. Đồng thời, với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, đồng chí đã tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện thành công nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược, như cuộc Tổng tiến cđồng chí và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968); cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thực tiễn chiến trường cho thấy đồng chí là một tài năng quân sự, nhà tham mưu chiến lược tài ba của Đảng và quân đội; đồng thời, đồng chí cũng có công lao lớn trong việc xây dựng quân đội, xây dựng các công trình phòng thủ miền Bắc để sẵn sàng đánh trả khi đế quốc Mỹ dùng không quân và hải quân ném bom, bắn phá miền Bắc.

Sau Hiệp định Paris (1/1973), đồng chí đã cùng Bí thư Khu ủy Khu 9 Võ Văn Kiệt kiên quyết không thực hiện lệnh “5 cấm chỉ” để giáng trả quân đội Sài Gòn khi chúng xé bỏ Hiệp định, tung quân đánh phá ác liệt vùng giải phóng của ta. Quyết định dũng cảm và táo bạo sát đúng với thực tế chiến trường của hai đồng chí sau này được Trung ương đánh giá rất cao. Năm 1974, đồng chí được điều trở lại làm Phó Tư lệnh Miền để chuẩn bị cho những đòn quyết định giải phóng miền Nam. Trên cương vị này, đồng chí trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch đường 14 - Phước Long, giải phóng thị xã Phước Long, xem đây như đòn trinh sát chiến lược thăm dò sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn và khả năng quân Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam khi quân ta đánh lớn hay không. Chính thắng lợi của chiến dịch này đã giúp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 -1976. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí là Phó Tư lệnh kiêm Tư lệnh Đoàn 232 đánh chiếm Sài Gòn từ hướng tây - tây nam và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ...

NGƯỜI LÃNH ĐẠO SẮC SẢO VỚI NHIỀU DẤU ẤN NỔI BẬT

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đảm nhiệm các trọng trách: Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng ban lãnh đạo Đoàn Chuyên gia tại Campuchia; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương); là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII và VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII và VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (9/1992 đến 12/1997); Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12/1997 đến 4/2001); đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.

Tháng 6/1978, đồng chí lại được điều động trở lại Đông Nam Bộ, giữ trọng trách Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 để chuẩn bị cho những chiến dịch lớn trừng trị bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary, đẩy chúng ra khỏi biên giới và giúp bạn đánh đổ chế độ diệt chủng, cứu dân tộc Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng. Tháng 6/1981, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Trong gần 7 năm gắn bó với chiến trường này, đồng chí đã chỉ huy bộ đội quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, góp phần giữ vững thành quả cách mạng.

Tháng 12/1986, đồng chí về Tổng hành dinh làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và đến tháng 2/1987 giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị là người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất của quân đội, đồng chí đã cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Cụ thể, đồng chí đã tham mưu cho Bộ Chính trị và lãnh đạo, chỉ đạo điều chỉnh bố trí chiến lược, tổ chức, biên chế, xây dựng quân đội vững mạnh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giải quyết vấn đề biên giới, tăng cường phòng thủ biển; đã trình Bộ Chính trị sắp xếp thế bố trí chiến lược của toàn quân, giảm quân số thường trực từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn; đã rút các đơn vị chủ lực về tuyến hai, đưa bộ đội địa phương, dân quân du kích và bộ đội biên phòng lên tuyến một làm cho tình hình biên giới dịu đi…

Luôn giữ vững lập trường và đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, xử lý và giải quyết các mối quan hệ quốc tế, quán triệt sâu sắc lời dạy “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí luôn tích cực nghiên cứu cách thức, phương pháp và  bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, một số đối tác, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước. Với tư duy sắc sảo của mình, đồng chí được Bộ Chính trị giao trọng trách thăm dò và trực tiếp tiến hành nhiều công việc hệ trọng, xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, Trung Quốc, từng bước đưa đất nước gia nhập ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992-1997. Đây là giai đoạn Việt Nam triển khai toàn diện công cuộc đổi mới với nỗ lực cao của toàn Đảng, toàn dân. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều bất lợi với Việt Nam, đặc biệt sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, đảm nhiệm trọng trách mới, trên cương vị nguyên thủ quốc gia, đồng chí đã cùng Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tập thể Bộ Chính trị, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trăn trở, tìm tòi biện pháp, quyết sách đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố an ninh - quốc phòng và mở cửa hội nhập quốc tế;  kiên định con đường đổi mới để tiến lên.

Là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của đất nước thời đổi mới, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, đồng chí đã thực hiện và triển khai một cách thận trọng, nghiêm túc, nhưng cũng hết sức tích cực chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn đất nước và con người Việt Nam; hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi; góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới… 

Là Chủ tịch nước, đồng chí đã ký công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng, góp phần lan tỏa sâu rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa, nhận phụng dưỡng suốt đời các Bà mẹ Việt Nam anh hùng; làm cho “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” và phong trào toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước, thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam…

NGƯỜI CHỈ HUY - LÃNH ĐẠO LUÔN QUAN TÂM CHĂM LO CHIẾN SĨ, ĐỒNG BÀO, ĐỒNG CHÍ

Hơn 80 năm tuổi Đảng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo tài năng, nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước đã dành trọn cuộc đời cống hiến vì sự nghiệp cách mạng. Vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, đồng chí hết lòng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Từng vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh luôn vững vàng bản lĩnh chính trị, giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc và nhân dân; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao tri thức về mọi mặt và hành động quyết liệt trong công tác để hoàn thành nhiệm vụ.

Trên những chặng đường cách mạng, dù đảm nhiệm vị trí, trọng trách nào, đồng chí cũng luôn xác định gắn bó mật thiết với nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống bình dị của nhân dân, vì nhân dân phục vụ để phấn đấu. Luôn nắm bắt tình hình thực tế, nhìn rõ những thuận lợi, khó khăn của thực tiễn, đồng chí đã lắng nghe tâm tư, tình cảm của nhân dân để kịp thời chỉ đạo các địa phương, đơn vị những ý kiến phù hợp. Trong chiến đấu và trong công việc, đồng chí quyết đoán, thẳng thắn và nghiêm khắc, song trong sinh hoạt đời thường, đồng chí lại luôn gần gũi, thương yêu, quan tâm, chăm lo và sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi với cán bộ, chiến sĩ… Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu, đồng chí đã mang hết tâm huyết, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết để tìm ra những biện pháp giải quyết kịp thời, giúp mình hoàn thành những trọng trách được giao phó.

Là một Chủ tịch nước, một Đại tướng nhân cách tài - đức vẹn toàn, trong ký ức của mỗi người dân, mỗi người lính, mỗi cấp dưới, cùng cấp, cấp trên hay với bạn bè quốc tế, đồng chí Lê Đức Anh không chỉ là tấm gương một người cán bộ lãnh đạo dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nhanh chóng quyết đoán trong những khoảnh khắc quyết định mà còn là một người giản dị và chan hòa, chân tình và độ lượng, luôn dành tình cảm thương yêu, quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ nói chung, với quê hương Thừa Thiên Huế nói riêng.

Trên chiến trường đối đầu trực diện với kẻ thù, đồng chí thể hiện bản lĩnh của một vị tướng tài năng, không chùn bước trước hy sinh, gian khổ; lăn lộn với thực tế, sát cánh cùng bộ đội để tìm ra những cách đánh hiệu quả, táo bạo, giảm thiểu hy sinh xương máu của chiến sĩ và đồng bào. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vị tướng giản dị, gần gũi và sâu sát thực tiễn Lê Đức Anh đã đi thăm và kiểm tra nhiều đơn vị cơ sở; đã kịp thời nắm bắt được thực tế những khó khăn, thiếu thốn, thậm chí cả biểu hiện tư tưởng tiêu cực phát sinh và kịp thời chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các đơn vị tập trung mọi nguồn lực chăm lo đời sống bộ đội, để anh em ổn định tư tưởng, quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Chỉ hơn một tháng sau “sự kiện Gạc Ma năm 1988”, Đại tướng đã trực tiếp đi thị sát quần đảo Trường Sa, nắm tư tưởng cán bộ, chiến sĩ và động viên bộ đội vững vàng tay súng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Cuộc đời, sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú của đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng, góp phần giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và khích lệ các tầng lớp nhân dân noi gương đồng chí, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, tiền bối tiêu biểu của Đảng ra sức học tập, lao động và cống hiến để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước, vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.


Nguồn:krongno.daknong.gov.vn Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo
Thống kê truy cập
Lượt truy cập hiện tại : 1
Hôm nay : 1.044
Năm 2024 : 656.347
Website huyện